MẤY BÀI THƠ ĐỌC Ở NHÀ ANH DOÃN QUỐC SỸ

 

 Một Buổi Đọc Thơ Đặc Biệt 

 

Một hôm có việc cần gặp anh Phạm Chí Thành (cũng là bạn anh Trác, ở ngã tư Hồng Thập Tự - Lê Văn Duyệt) mà không thấy anh ở nhà tôi bèn đạp xe thẳng ra nhà anh Trác ở gần đấy tìm anh. Không thấy anh Thành nhưng anh Trác đã đon đả mời tôi vào nhà. 

 

“Sao? Chiều Thứ Bảy tuần này có bận gì không? Tôi định rủ ông đến nhà anh Sỹ chơi. Có cả Nguyễn Hữu Nhật ở đấy. Hai thi sĩ tha hồ mà đọc thơ”. 

 

Anh đã bóng gió nói chuyện này với tôi từ lâu nhưng có lẽ tuần này mới tiện dịp. Tôi trả lời: 

 

“Hôm ấy định ra Chợ Lớn nhận ít hàng cho bà chị, nhưng không gấp. Có chuyện vui chơi thì để hôm sau cũng đưọc”. 

 

Tôi đến nhà anh Trác khoảng1 giờ trưa Thứ Bảy. Thư thả uống trà một lúc rồi hai anh em hai chiếc xe đạp ra đường Cộng Hòa (Nguyễn Văn Cừ), qua Đại Học Khoa Học một đoạn rồi rẽ phải. Nhà anh Sỹ ở trong một con hẻm rộng trên đường này, đường An Dương Vương. 

 

Đến nơi, một người đứng tuổi, dáng vẻ trí thức, mặt phúc hậu, ra cửa đón vào. Trong nhà đã có một người nữa đứng cạnh bàn. Anh Trác lịch thiệp giới thiệu và mọi người vui vẻ bắt tay nhau. 


Người đứng tuổi là nhà văn Doãn Quốc Sỹ (sinh năm 1923), người kia trẻ hơn là nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật (1942), chồng nhà văn Nguyễn Thị Vinh (em gái Nguyễn Tường Tam và là thành viên trẻ tuổi nhất của Tự Lực Văn Đoàn). Bên cạnh anh Trác (1936), tôi trẻ nhất (1952) – năm đó mới 32 cái xuân xanh. 


Anh Sỹ mời mọi người ngồi và rót trà tiếp đãi rất lịch sự. Sau vài phút thăm hỏi xã giao là phần diễn đọc thơ. Anh Nhật được coi là người nhà (thơ của anh đã rất quen thuộc với nhóm văn nghệ sĩ quen biết anh Sỹ) nên anh Sỹ mời anh mở đầu chương trình.  Anh Nhật nhắp một hớp trà rồi bắt đầu đọc bài thơ HOA CÚC VÀNG      

 

            HOA CÚC VÀNG 

 

Chỗ anh đứng chờ em ra

Bây giờ thiên hạ trồng hoa cúc vàng

Mỗi lần có dịp đi ngang

Nhớ em anh tưởng áo vàng lụa bay 

 

Nghĩ  hoài sống mũi cay cay

Mấy năm chẳng được một ngày gần nhau

Hạnh phúc thường hay qua mau

Vắng nhau thì thấy ở đâu cũng buồn 

 

Tự dưng thương ghế thương bàn

Nơi em đã để cho làn hương rơi

Anh muốn kêu lên em ơi

Nhớ gì nhớ đến chết người như không 

 

Tay vò hoa cúc nát lòng

Vàng phai hay ý chờ mong nhạt dần.

 

(Bài thơ này đã được anh Đinh Văn Trang phổ nhạc tại trại Thanh Cẩm vào năm 1979)  

 

Đây là tâm tình của anh trong những tháng năm cải tạo xa cách vợ hiền. Anh Trác đã kể tôi nghe về chuyện tình của anh Nhật với chị Vinh - chị hơn anh 18 tuổi. Ở thời điểm ấy – Nàng ra đời trước Chàng từng ấy năm - kể cũng hơi khác thường. 

 

Nhưng phải công nhận tình yêu và nỗi nhớ thương của anh với người tình đậm đà, sâu sắc, lãng mạn và rất Thơ – nghe rất khoái. Chờ một lát cho chất tình, chất lãng mạn, chất Thơ thấm vào hồn khán giả, anh Nhật nhắp một hớp trà nữa rồi đọc tiếp 4 câu thơ: 

 

Một ngày không thấy mặt nhau

Đã như phát ốm phát đau một ngày

Xa nhau đã mấy năm nay

Mình không bỏ mạng là may lắm rồi 

 

Như đã nói ở trên, chị hơn anh 18 tuổi nên nghe đoạn thơ rất sâu sắc, đậm tính lãng mạn đó, anh Sỹ, anhTrác và cả tôi đều cười thích thú.  

 

Đến đây anh Sỹ nhìn tôi thân thiện nói: 

 

Nghe anh Trác kể thơ anh Nhì được anh em trong trại cải tạo rất ưa thích. Nhân dịp này cho chúng tôi nghe vài bài nhé. 

 

Tôi cũng cầm ly nhấp một hớp trà thấm giọng rồi tự giới thiệu và đọc bài thơ HẸN MỘT NGÀY MAI. Tôi viết bài này ở phân trại E cuối năm 1981, lúc mới bước qua tuổi 30.   

 

HẸN MỘT NGÀY MAI 

 

Ai chẳng muốn có một mái nhà êm ấm

khi đã bước qua tuổi ba mươi

một cô vợ hiền lành duyên dáng

một hai đứa con kháu khỉnh tươi cười 

 

Bắt tay vào xây dựng tương lai

trong muôn nghìn việc chung của quê hương dân tộc

ai chẳng có một đôi khoảnh khắc

nghĩ về những riêng tư 

 

Tôi còn bà mẹ già

như ngọn đèn sắp tắt

mong đứa con trai từng giờ, từng phút

sớm trở về nhà lấy vợ, đẻ con 

 

 

Mang trong lòng một hoài bão sắt son

“Bồi đắp vun trồng những mầm non nước Việt”

tôi cũng muốn mai đây trong cánh rừng tươi đẹp

có một, đôi cây mang vóc dáng của mình

ngạo nghễ giữa trời xanh 

 

Nhưng hôm nay nghĩ đến chuyện gia đình

tôi như chạm phải vết thương nhức nhối

đất nước vẫn chìm trong đêm tối

lũ quỷ đỏ dã man vẫn đày đọa muôn dân

đường đấu tranh sẽ còn lắm gian nan

mà sự nghiệp chỉ đôi bàn tay trắng 

 

Tôi biết mình chưa thể chu toàn bổn phận

làm chồng, làm cha khi chí vẫn tang bồng

vẫn chưa chồn chân lội suối băng rừng

vẫn đôi tay muốn ghì chặt súng

trên đầu tóc vẫn đang dựng đứng

mắt vẫn in rõ mặt quân thù 

 

Và trái tim

vẫn hằng đêm

nhói đau trong ngực

khi xa xa vọng về tiếng khóc

của những bà mẹ già, những đứa trẻ thơ 

 

Nên dù có lời hứa đợi chờ

của cô láng giềng tôi yêu tha thiết

dù mẹ tôi khao khát

mong cô con dâu, mong đứa cháu gọi bà

tôi vẫn lắc đầu và mỉm cười vu vơ

khi có người hỏi

“Sao chưa lấy vợ?” 

 

Tôi mơ đến một khoảng trời rộng mở

có những đoàn quân

tiến về Sài Gòn

đòi lại quê hương đã mất

và hòa trong ào ào tiếng thét

“Tiến lên! Hãy tiến lên!”

có bóng tôi lao vút như tên. 

 

Vâng. Đó là tâm sự của tôi– một thanh niên sắp “tam thập nhi lập” nhưng hoàn cảnh trớ trêu, vẫn còn nằm trong trại cải tạo, chưa được ra đời thực hiện những ước mơ - xây dựng gia đình, tạo lập tương lai sự nghiệp. 

 

Tứ thơ “nhất khí liền mạch”, âm điệu chảy thành dòng làm chỗ dựa cho cảm xúc cùng những mảnh tâm sự bám theo đi vào tâm hồn những người yêu thơ. Anh Sỹ đang gật gù như muốn nhờ năng lượng từ sự chuyển động của cái đầu đưa cảm xúc thấm sâu vào tâm hồn. 

 

Không khí lặng đi một lúc lâu. 

 

Rồi anh Sỹ ngẩng đầu lên nhìn tôi nhẹ nhàng “ra lệnh”: 

 

Một bài nữa đi anh Nhì. 

 

Tôi dùng vài phút kể lể sự tình:  

 

Sau khi bị đánh đập dập xương sống, bị cùm kẹp đến liệt hai chân và rối loạn cơ tròn, không kiểm soát được đường tiểu tiện và đại tiện, tôi nằm chờ chết trong xà lim. Nhờ sự can thiệp tận tình của hai bác sĩ tù Trần Quý Nhiếp và Trần Văn Lịch, cộng thêm đề nghị của một phái đoàn Thanh Tra Y Tế Trung Ương, tôi được chuyển vào một bệnh xá nhỏ ở Phân Trại B, nơi giam giữ tù hình sự.

 

Tôi đã sống chung với đủ mọi loại tội phạm: Giết người, trộm cướp, hiếp dâm, lừa đảo, xì ke ma tuý v.v. Lúc ấy ở bệnh xá có khoảng 30 bệnh nhân, toàn là tù hình sự. Chỉ mình tôi “lạc loài”. 

 

Rồi tôi bắt đầu đọc bài thơ TÔI ĐÃ GẶP Ở ĐÂY 

 

Tôi đến đây

trong một lần đi trốn

khi đang trong cuộc một trò chơi lớn

trò chơi đấu tranh 

 

Nhìn quanh

tôi thấy toàn thú dữ

mắt tròn xoe đổ lửa

uống máu ăn thịt lẫn nhau

trong khi bên ngoài những lớp rào và những hào sâu

bầy quỷ sứ đứng canh ngả nghiêng cười khoái trá 

 

Ở đây

một nắm rau dại một con sâu, con dế

lắm khi tàn tạ thân xác một con người

một mẩu tàn thuốc rơi

có thể làm máu đổ  

 

Tử thần đang mừng rỡ

bước từng bước đến gần

những con người khốn khổ

họ không có gì chống đỡ

nên chỉ biết bán rẻ nhân cách của mình

biến thành những con vật đê hèn

ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi 

 

May mắn thay

tôi đã gặp ở đây

ân tình đong thật đầy

của những người bạn mới

(giữa rừng cỏ dại quanh bờ suối

lác đác một hai khóm trúc đào) 

 

Tôi quên sao được hương vị ngọt ngào

của cành hoa các anh trao giữa muôn nghìn cay đắng

đàng sau những vệt máu, những giọt mồ hôi, những tia nhìn thù hận

là màu xanh ước mơ

những nét nhạc, những vần thơ

khung trời quê hương, biển tình yêu và cuồn cuộn dâng nhựa sống

tâm hồn tôi như bay cao giữa trời gió lộng

dù xác thân vẫn trĩu nặng gông xiềng 

 

Tôi cũng gặp những đứa em

còn chút dáng người giữa bầy dã thú

đói thắt ruột và roi quất trên đầu, trên cổ

vẫn chẳng nỡ ăn thịt đồng loại của mình (ý nói không làm Ăng - ten)

tôi ôm các em vào lòng

thủ thỉ bên tai những lời thân ái

để các em quen dần tiếng nói

của loài người đã quên mất từ lâu 

 

Tôi đã bị đẩy xuống tận đáy vực sâu

dù đường còn rất xa, và rất nhiều khó nhọc

vẫn cố trèo lên miệng vực

dù bọn quỷ sứ muốn biến tôi thành súc vật

trái tim tôi vẫn ăm ắp tình người

vẫn quay quắt nhớ người yêu

xa tít một phương trời

và vẫn niềm tin

ở một ngày mai. 

 

Viết cuối năm 1982 ở Bệnh Xá Phân Trại B 

 

Tôi cũng giải thích một chi tiết (coi như một chú thích) cho 2 câu thơ chữ màu đỏ để có sự thông cảm của khán giả:  

 

Một ngày Chủ Nhật, được nghỉ lao động, có 2 em tù hình sự đến "cà kê dê ngỗng" kể chuyện tôi nghe. Số là cả 2 em đều ghiền thuốc nặng, lúc đang cuốc đất, thấy tên công an võ trang đứng gần đấy vứt cái tàn thuốc mới hút xong, cùng xông tới giành nhau. Đứa bị dộng báng súng lên ngực, chiều tối về phòng mới ói máu; đứa bị chân giầy đạp lên mặt, máu răng, máu miệng bê bết "giữa trận tiền". Một em vừa cười vừa nói với tôi: "Biết là ăn đòn nhưng ghiền quá chịu không nổi anh ơi!" 

 

Đến đây anh Trác chen vào lên tếng mời anh Nhật đọc thơ tình để thay đổi không khí. Anh Nhật là tay đọc thơ chuyên nghiệp nên dù đã sẵn sàng vẫn chờ thêm khoảng một phút nữa để thu hút sự chú ý của khán giả. Rồi anh không giới thiệu mà, thật chậm rãi, đi thẳng vào bài thơ: 

 

  ÁO DÀI 

 

Ngày nào mới mặc áo dài

Tay em run quá chẳng cài nổi khuy

Chuyện giờ kể có khác đi

Run run anh cởi hết khuy em cài 

 

Ngày nào mới thở hương người

Em say ngây ngất rụng rời ngón tay

Chuyện giờ kể có khác đi

Tay em buông thõng mỗi khi nhớ người 

 

Ngày nào anh cũng làm thơ

Dù em là chiếc gương mờ đã lâu

Trước khi đi ngủ, chải đầu

Ðể trong giấc mộng gặp nhau đàng hoàng 

 

Ngày nào mắt ngọc xanh tình

Ðêm khuya anh nhớ dịu hiền mắt em

Chuyện giờ kể có khác đi

Mi xanh mắt ngọc bút chì tô quanh 

 

Ngày nào mới mặc áo dài

Trông gương soi bóng tự cài lấy khuy

Chuyện giờ kể có khác đi

Không đem bán áo lấy gì nuôi nhau 

 

Hai câu cuối của bài thơ còn có chút “hoàn cảnh xã hội”. Vào thời điểm đó cuộc sống của dân miền nam thiếu thốn, cơ cực quá nên bàn ghế tủ giường, tivi radio máy hát - tất tật mọi thứ - kể cả sách quý hiếm, quần áo đẹp (kỷ niệm) đều bị lôi ra bán để kiếm chút bỏ bụng cho đỡ đói. 


Phải công nhận tình yêu của anh với người tình (chị Nguyễn Thị Vinh) – hơn anh đến 18 tuổi - đậm đà, sâu sắc, lãng mạn và rất Thơ. 


Lâu lắm mới được nghe những lời thơ vừa đậm chất tình, vừa dễ thương, vừa đúng với cảnh đời (chứ không phải toàn những lời tuyên truyền) nên tôi cảm thấy lòng lâng lâng, khoan khoái. 

 

Sau đó là giờ giải lao.  

 

Chị con dâu của nhà văn Doãn Quốc Sỹ đem chè đậu xanh lên mời khách. Đến chỗ tôi chị đặt chén chè lên bàn rồi nhỏ nhẹ nói: “Cháu mời chú ăn chè”. Tôi giật nẩy mình. (Chị ít ra cũng hơn tôi vài tuổi). Tôi nhìn anh Sỹ đỏ mặt, ngượng ngùng. Nhưng nhà văn đáng tuổi cha chú tôi đã lịch thiệp lên tiếng: 

 

Anh Nhì à! Anh Trác là bạn tôi. Anh là bạn anh Trác tức cũng là bạn tôi. Hơn nữa, chúng ta là nhà văn, nhà thơ – mà nhà văn, nhà thơ thì không có tuổi. Cháu xưng hô với anh như vậy là đúng đấy. Anh đừng ngại. (1

 

Tôi bỗng nghĩ đến câu “Trong văn chương thì ‘gừng càng già càng cay’, nhưng cũng có khi ‘tài không đợi tuổi’”. Như vậy câu nói của anh Sỹ cũng có phần đúng của nó. Nhưng rồi cũng có câu “Hãy kính trọng người già khi bạn còn trẻ” rất hợp với truyền thống, lễ giáo, cách xưng hô, giao tiếp của người Việt Nam - theo tôi, cũng không nên coi thường. Bởi vậy cách xưng hô của chị con dâu có làm tôi áy náy đôi chút. 

 

Tuy nhiên, “nhập gia tùy tục”nên tôi không có ý kiến gì thêm. 

 

Ăn chè xong, chị châm thêm một bình trà mới và chương trình đọc thơ lại tiếp tục. Tôi và anh Nhật cứ xen kẽ nhau trổ tài. Tôi đọc 2 bài (HOA DẠI và VÌ THẾ TÔI RA ĐI), anh Nhật đọc tiếp 4 bài nữa. Khi tôi đọc xong bài VÌ THẾ TÔi RA ĐI thì ba vị khán giả yêu thơ lim dim mắt, gật gù như muốn thử tìm xem có chỗ nào có thể cảm thông với nỗi niềm tâm sự hơi lạ đời đó không. Chắc là cũng có đôi chút nên ngồi uống trà một lát, anh Sỹ lại nhìn tôi có vẻ thúc giục. 

 

Anh Trác khuyến khích:  

 

“Cứ chơi thoải mái đi ông Nhì”. 

 

Và tôi đọc thêm bài thơ TẬP VẼ.  

 

Bài này tôi cũng viết lúc đang nằm ở bệnh xá phân trại B.  Một em tù hình sự có học lại có hoa tay,  vẽ đẹp nên được ưu tiên cho về đội nhà bếp để thỉnh thoảng vẽ cờ, hoa, khẩu hiệu trang trí cho phân trại. Em mến tôi và lúc bớt việc lại đến bệnh xá đề nghị tôi hát mấy bản nhạc vàng mà em ưa thích. 

 

Một hôm em tâm sự là rất buồn, rất chán khi bị bắt buộc phải vẽ những hình, khẩu hiệu mà em “không có cảm tình”.  Bài thơ ra đời trong khung cảnh ấy. 

 

TẬP VẼ 

 

Thuở bé thầy giáo thường khen em

có hoa tay, vẽ nhanh, vẽ đẹp

chỉ vài nét

là có hình người muông thú, cỏ hoa 

 

Thế mà mấy năm qua

em luôn bị điểm 2 môn vẽ

chăm chỉ, miệt mài tính em vẫn thế

chứ có đâu biếng nhác, ươn hèn 

 

Nhớ hôm vẽ cờ búa liềm

em đã ngắm kỹ từng đường cong nét thẳng

em cũng ướm thử từng đoạn dài đoạn ngắn

nhưng đến hết giờ

em vẽ cũng vẫn … sai 

 

Đưa lưng cho thầy quất mấy roi

em ngỡ liềm cứa thịt da em rách

thước kẻ thầy đánh vào tay

em tưởng búa đập xương em dập nát 

 

Một hôm khác

lớp em vẽ hình Lê- Nin

em hết nhìn thẳng lại nhìn nghiêng

để ý từ chòm râu, sóng mũi 

Nhưng lạ chưa!

Lê – Nin của em vào cuối buổi

trông cứ như đang múa vuốt, nhe nanh

xem bài em thầy giáo giật mình

đánh em ngã lăn giữa lớp 

 

Hôm vẽ Bác Hồ lòng em hồi hộp

thầy đứng bên em chẳng phút nào rời

thầy nhắc em Bác nhân đứcyêu người

thầy sánh Bác với vua Hùng dựng nước 

 

Em cố vẽ theo lời thầy nhưng không sao vẽ được

tay chén chè tàu tay ly rượu Vốt- Ka

Bác Hồ của em trông gian ác, điêu ngoa

em lại bị thêm trận đòn tím bầm thân thể 

 

Bản đồ nước Việt Nam

một hôm em đang vẽ

này biển, này sông, này rừng núi, ruộng vườn

này những thành phố quê hương

em đặt hết tâm hồn vào trang giấy nhỏ 

 

Thầy đứng sau lung cầm cây cọ đỏ

bôi kín tấm bản đồ tổ quốcem yêu

đỏ biển, đỏ sông, đỏ những đê điều

đỏ phố, đỏ phường

đỏ hết cả núi rừng, nương rẫy 

 

Em bỏ ngôi trường làng ra đi từ dạo ấy

lang thang như một khách giang hồ

Ôi! Nhớ làm sao những lần tập vẽ ngày xưa

Ồ! Giá trường em giờ có thầy giáo mới 

Em sẽ chạy về ngay

không để lỡ một ngày, một buổi

ngồi vào hàng ghế ngày xưa

thầy đang dậy những câu hát mẹ ru

còn em háo hức chờ đến giờ tập vẽ.  

 

Lúc viết bài thơ này, dù còn đang bại liệt trong trại cải tạo, tôi đã mơ đến chuyện ra đi chứ không như ngày 29 tháng tư năm 1975: 

 

Khi đoàn tàu chở đơn vị tôi

chuẩn bị rời Vũng Tàu hướng ra Đông Hải

thương cha mẹ già, đàn em dại

tôi bước lên bờ ở lại quê hương.

(Bờ Vẫn Quá Xa, Phạm ĐứcNhì) 

 

Bởi thông tin truyền vào qua thăm nuôi cho biết “sĩ quan cải tạo” trở về nếu không nhanh chóng tìm đường ra đi thì ở lại sẽ bị tước đoạt hết mọi cơ hội kiếm sống, sẽ chỉ là gánh nặng cho gia đình mà thôi.     

 

Và đây cũng là bài cuối của chương trình. Khác mấy bài trước, bài này được 3 khán giả đón nhận nồng nhiệt. 

 

Trong gần 3 tiếng đồng hồ thả hồn vào thơ, anh Nhật đọc 7 bài. Tôi đọc 5 bài. Thỉnh thoảng cũng có những “lời bình ngắn” rất uyên bác, điệu nghệ của anh Sỹ và anh Trác.  Vì đây là bài viết về anh Trác nên tôi chỉ đưa vào 3 bài thơ của anh Nhật và 3 bài của tôi để độc giả có thể mường tượng ra phần nào khung cảnh, không khí của buổi đọc thơ. Mục đích chính của đoạn này là làm nổi bật vai trò “đạo diễn ngầm” của anh Trác.

 

Độc giả có thể đọc cả 5 bài thơ tôi đọc tại nhà anh Sỹ theo link sau đây:

https://maybaitho.blogspot.com/2023/10/may-bai-tho-oc-o-nha-anh-doan-quoc-sy.html    

 

Còn 4 bài khác nữa của anh Nhật, rất tiếc lâu quá, tôi đã quên. 

 

Anh Nhật đọc thơ rất có duyên. Anh để ý “luyến láy” từng chữ, từng câu. Anh đọc thơ của chính mình, lại thuộc lòng, nên dễ dàng lột tả được những chỗ ý tứ sâu sắc, “chữ tình” đằm thắm, thiết tha. Cái thú khi nghe thơ anh Nhật là không phải “ngẫm” cũng có thể hiểu rồi cảm được ý tứ sâu sắc, cảm xúc dạt dào đằm thắm được gói ghém khéo léo trong những câu thơ có ngôn ngữ, hình tượng tỏa ra nét đẹp văn chương óng mượt.  

 

Thơ tôi dễ đọc hơn. Bài thơ dài, nhất khí liền mạch và tôi đã thuộc như cháo nên khi đọc cứ thả hồn theo dòng chảy của tứ thơ, dòng cảm xúc và nhờ dòng âm diệu dẫn đưa về Bến Đỗ. 

 

Một người đọc thơ, 3 người còn lại cũng lặng yên thả hồn vào từng chữ, từng câu. Phòng khách thì rộng rãi, thoáng mát nhưng cũng hoàn toàn im ắng như muốn cùng hòa điệu với những người thưởng thức thơ ca toàn tâm, toàn ý. 

 

Trước khi chia tay anh Sỹ dặn tôi: 

 

“Anh Nhì nhớ cho tôi mấy bài thơ để gởi cho các anh ấy ở bên kia nhé.” 

 

Được một người như nhà văn Doãn Quốc Sỹ quý trọng, yêu mến thơ của mình và bộc lộ một cách tế nhị như thế thật là một điều vinh hạnh. Điều đó đã giúp tôi tự tin hơn, thoải mái hơn khi phóng bút viết những bài thơ sau này. 

 

Ra về tôi không nói gì thêm với anh Trác nhưng lòng thầm cám ơn anh đã có công “gầy sòng” rồi cùng anh Sỹ “đạo diễn” để tôi có một buổi đọc thơ đáng nhớ trong đời.  

 

Tôi chưa kịp “trao thơ” thì anh Sỹ, anh Trác và một số nhà văn, nhà thơ khác đã bị bắt trong vụ NhữngTên Biệt Kích Cầm Bút. (Chuyển “thơ văn chống đối chế độ” từ trong nước ra hải ngoại) (3

 

Gặp Lại Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ 

 

Giữa tháng 2 năm 2003 anh Trác gọi điện thoại rủ tôi đi dự văn nghệ mừng Thượng Thọ 80 của nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Buổi văn nghệ được tổ chức tại một hội trường lớn ở thành phố Houston. Anh Trác và tôi chọn hai chỗ sát lối đi ở bên trái khán đài, anh Sỹ cùng gia đình ngồi ở phía bên kia lối đi. 


Chương trình văn nghệ bên cạnh “cây nhà lá vườn” tại Houston còn có vài ca sĩ từ xa đến chung vui. Người hát nhạc vàng trước 75, người hát nhạc mới sáng tác tại hải ngoại. Cũng có người đọc bài thơ “Mừng Bác 80” để chúc thọ nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Không khí thật rộn ràng, vui vẻ. Được ngày nghỉ lên khu trung tâm thành phố chơi nên tôi thả hồn vào lời ca tiếng hát.  

 

Bỗng MC cao giọng:  “Để thay đổi không khí chúng tôi xin giới thiệu anh Phạm Đức Nhì. Anh sẽ đọc một bài thơ do chính anh sáng tác. Xin mời nhà thơ Phạm Đức Nhì”. 

 

Hơi bị bất ngờ, tôi đứng dậy nhìn anh Trác thì thấy anh cười nói: “Ông cứ lên cho bà con thưởng thức một bài cho vui.” Thì ra anh đã “gài độ” trước. 

 

Năm 1996, sau khi dự lễ khai mạc kỳ đài tại Houston, nhìn lá cờ vàng 3 sọc đỏ phất phới bay trong gió, cảm xúc dâng trào, tôi đã viết bài thơ LÁ CỜ CHÍNH NGHĨA. Thời gian đó chưa có Facebook, nhưng chỉ qua Emails bài thơ đã được loan truyền rộng rãi trên các diễn đàn.  Lễ mừng thượng thọ nhà văn Doãn Quốc Sỹ - một người yêu tự do, đã bị chính quyền Cộng Sản bỏ tù – mà đọc bài thơ ấy thì rất hợp cảnh hợp tình.

 

Nhưng đứng trên khán đài nhìn anh Sỹ, rồi lại nhìn anh Trác ở bên kia lối đi giữa hội trường, kỷ niệm buổi đọc thơ 19 năm trước tại nhà anh Sỹ lại hiện về. Qua những “lời bình ngắn” ý nhị hôm ấy, tôi biết hai anh - đặc biệt là anh Sỹ - có lòng ưu ái với bài thơ TẬP VẼ của tôi. Thế là sau một chút lưỡng lự tôi đã quyết định đọc “bài thơ kỷ niệm” ấy. 

 

Bài thơ được mọi người nhiệt tình tán thưởng, tiếng vỗ tay lớn và kéo dài rất lâu. Xuống khán đài về chỗ ngồi, lúc qua chỗ anh Sỹ, anh đứng lên kéo tôi lại gần rồi ghé sát tai tôi nói nhỏ: 

 

“Tôi vẫn nhớ mấy bài thơ anh đọc năm nào tại nhà tôi. Riêng bài Tập Vẽ bây giờ nghe lại càng thấy thấm thía”. 

 

Tôi chỉ biết đứng yên, miệng lí nhí “Cám ơn anh” nhưng trong đầu lại hiện ra khuôn mặt khả ái và nụ cười ý nhị của ca sĩ Duy Trác.   



(1) Sau này nhờ tâm hồn cởi mở, phong cách phóng khoáng trong giao tiếp với bè bạn văn chương của anh Sỹ và đặc biệt là câu “Chúng ta là nhà văn, nhà thơ - mà nhà văn, nhà thơ thì không có tuổi” tôi đã có cái nhìn tự do hơn, khách quan hơn đối với các nhà văn, nhà thơ và tác phẩm của họ. 

 

Tôi đã tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu để tạo cho mình một nền tảng kiến thức lý luận văn học và khi nhận xét, đánh giá một bài thơ, một tác phẩm văn chương tôi chỉ dựa trên cái nền tảng kiến thức đó.

 

Kết quả là tôi đã bỏ được một “thói xấu” trong phê bình: Coi trọng đến mức tôn thờ tác phẩm của các “cây cổ thụ văn chương” – không dám “đụng đến” những khuyết điểm, dù sờ sờ trước mắt, của họ - và ngược lại, coi thường đến mức bất công tác phẩm của những văn thi sĩ còn non trẻ.        

 

Sau đây là "Mấy Bài Thơ Đọc Ở Nhà Anh Doãn Quốc Sỹ"

                          

HOA DẠI

 

(Tâm sự một nhà thơ)

 

Tôi là loài hoa dại

mọc bên đường

tỏa sắc hương

dịu lòng những ông bố trên đường đến xưởng

những bà mẹ đi thăm ruộng 

trở về

 

Tôi thêm nét vui tươi cho cô gái quê

xách làn đi chợ

các cô cậu học trò

mặt mày hớn hở

cười với tôi mỗi buổi đến trường

 

Tôi đứng đây

mở lòng đón gió bốn phương

để thêm sắc thêm hương

cho người đời thêm đẹp dạ

 

Bạn đừng tưởng đời tôi êm ả

như mặt nước hồ

tôi đã bao phen nghiêng ngả

trước những trận gió to

 

Có lúc thân tôi xác xơ

tả tơi từng cánh

lá rụng phấn bay lịm dần trong đêm lạnh

nhưng nghĩ đến ngày mai tôi gượng dậy mỉm cười

 

Tuy nhiên

nếu lúc này bạn ngỏ ý mời tôi

đến một ngôi nhà sang trọng

dành cho tôi chỗ ngồi ấm cúng

có kẻ chăm lo trẩy lá tỉa cành

tôi vẫn lắc đầu nhìn dưới chân mình

mảnh đất nhỏ tôi vô cùng yêu mến

 

Tôi sống

không phải để riêng ai âu yếm

sắc hương này

tôi muốn sẻ chia 

cho tất cả mọi người từ em bé ngây thơ

đến các cụ già trăm tuổi

 

Và nếu nơi đây

nước dâng bão nổi

tấm thân này tan nát cuốn muôn nơi

tôi vẫn vui bởi phấn nhụy của tôi

sẽ mọc lên trăm ngàn cây hoa mới 

 

Bệnh Xá B 1983

 

 

HẸN MỘT NGÀY MAI

 

Ai chẳng muốn có một mái nhà êm ấm

khi đã bước qua tuổi ba mươi

một cô vợ hiền lành duyên dáng

một hai đứa con kháu khỉnh tươi cười

 

Bắt tay vào xây dựng tương lai

trong muôn ngàn việc chung

của quê hương dân tộc

ai chẳng có một đôi khoảnh khắc

nghĩ về những riêng tư

 

Tôi còn bà mẹ già

như ngọn đèn sắp tắt

mong đứa con trai từng giờ, từng phút

sớm trở về nhà lấy vợ, đẻ con

 

Mang trong lòng một hoài bão sắt son

“Bồi đắp vun trồng những mầm non nước Việt”

tôi cũng muốn mai đây

trong cánh rừng tươi đẹp

có một, đôi cây mang vóc dáng của mình

ngạo nghễ giữa trời xanh

 

Nhưng hôm nay

nghĩ đến chuyện gia đình

tôi như chạm phải vết thương nhức nhối

đất nước vẫn chìm trong đêm tối

lũ quỷ đỏ dã man

vẫn đày đọa muôn dân

đường đấu tranh sẽ còn lắm gian nan

mà sự nghiệp chỉ đôi bàn tay trắng

 

Tôi biết mình chưa thể chu toàn bổn phận

làm chồng

làm cha

khi chí vẫn tang bồng

vẫn chưa chồn chân lội suối băng rừng

vẫn đôi tay muốn ghì chặt súng

trên đầu tóc vẫn đang dựng đứng

mắt vẫn in rõ mặt quân thù

 

Và trái tim

vẫn hằng đêm

nhói đau trong ngực

khi xa xa vọng về tiếng khóc

của những bà mẹ già, những đứa trẻ thơ

 

Nên dù có lời hứa đợi chờ

của cô láng giềng tôi yêu tha thiết

dù mẹ tôi khao khát

mong cô con dâu

mong đứa cháu gọi bà

tôi vẫn lắc đầu và mỉm cười vu vơ

khi có người hỏi

“Sao chưa lấy vợ?”

 

Tôi mơ đến một khoảng trời rộng mở

có những đoàn quân

tiến về Sài Gòn

đòi lại quê hương đã mất

và hòa trong ào ào tiếng thét

“Tiến lên! Hãy tiến lên!”

có bóng tôi lao vút như tên

 

Viết khi mới bước qua tuổi 30

Phạm Đức Nhì


                           TẬP VẼ


Bài này tôi viết lúc đang nằm ở bệnh xá phân trại B. Tôi được chuyển vào đây sau khi bị đạp giập xương sống trong xà lim lần thứ hai.

Một em tù hình sự có học lại có hoa tay, vẽ đẹp nên được ưu tiên cho về đội nhà bếp để thỉnh thoảng vẽ cờ, hoa, khẩu hiệu trang trí cho phân trại. Em mến tôi và lúc bớt việc lại đến bệnh xá đề nghị tôi hát mấy bản nhạc vàng mà em ưa thích.

Một hôm em tâm sự là rất buồn, rất chán khi bị bắt buộc phải vẽ những hình, khẩu hiệu mà em “không có cảm tình”.

 

Bài thơ TẬP VẼ ra đời trong khung cảnh ấy.

 

 

Thuở bé

thầy giáo thường khen em

có hoa tay, vẽ nhanh, vẽ đẹp

chỉ vài nét

là có hình người

muông thú, cỏ hoa

 

Thế mà mấy năm qua

em luôn bị điểm 2 môn vẽ

chăm chỉ, miệt mài

tính em vẫn thế

chứ có đâu biếng nhác, ươn hèn

 

Nhớ hôm vẽ cờ búa liềm

em đã ngắm kỹ

từng đường cong nét thẳng

em cũng ướm thử

từng đoạn dài đoạn ngắn

nhưng đến hết giờ

em vẽ cũng vẫn … sai

 

Đưa lưng cho thầy quất mấy roi

em ngỡ

liềm cứa thịt da em rách

thước kẻ thầy đánh vào tay

em tưởng

búa đập xương em dập nát

 

Một hôm khác

lớp em vẽ hình Lê- Nin

em hết nhìn thẳng lại nhìn nghiêng

để ý từ chòm râu, sóng mũi

 

Nhưng lạ chưa!

Lê – Nin của em vào cuối buổi

trông cứ như đang múa vuốt, nhe nanh

xem bài em

thầy giáo giật mình

đánh em ngã lăn giữa lớp

 

Hôm vẽ Bác Hồ

lòng em hồi hộp

thầy đứng bên em

chẳng phút nào rời

thầy nhắc em

Bác nhân đức yêu người

thầy sánh Bác

với vua Hùng dựng nước

 

Em cố vẽ theo lời thầy

nhưng không sao vẽ được

tay chén chè tàu

tay ly rượu Vốt- Ka

Bác Hồ của em

trông gian ác, ranh ma

em lại bị thêm trận đòn

tím bầm thân thể

 

Bản đồ nước Việt Nam

một hôm em đang vẽ

này biển, này sông,

này rừng núi, ruộng vườn

này những thành phố quê hương

em đặt hết tâm hồn

vào trang giấy nhỏ

 

Thầy đứng sau lưng

cầm cây cọ đỏ

bôi kín tấm bản đồ tổ quốc em yêu

đỏ biển, đỏ sông

đỏ những đê điều

đỏ phố, đỏ phường

đỏ hết cả núi rừng, nương rẫy

 

Em bỏ ngôi trường làng

ra đi từ dạo ấy

lang thang như một khách giang hồ

Ôi! Nhớ làm sao

những lần tập vẽ ngày xưa

Ồ! Giá trường em

giờ có thầy giáo mới

 

Em sẽ chạy về ngay

không để lỡ một ngày,

một buổi

ngồi vào hàng ghế ngày xưa

thầy đang dậy những câu hát mẹ ru

còn em háo hức

chờ đến giờ tập vẽ.


Lúc viết bài thơ này, dù còn đang bại liệt trong trại cải tạo, tôi đã mơ đến chuyện ra đi chứ không như ngày 29 tháng tư năm 1975:

 

Khi đoàn tàu chở đơn vị tôi

chuẩn bị rời Vũng Tàu hướng ra Đông Hải

thương cha mẹ già, đàn em dại

tôi bước lên bờ

ở lại quê hương.

(Bờ Vẫn Quá Xa, Phạm Đức Nhì)

 

Bởi thông tin truyền vào qua thăm nuôi cho biết “sĩ quan cải tạo” trở về nếu không nhanh chóng tìm đường ra đi thì ở lại cũng bị tước đoạt hết mọi cơ hội kiếm sống, sẽ chỉ là gánh nặng cho gia đình mà thôi.


      VÌ THẾ TÔI RA ĐI.

 

Đây là bài thơ tôi viết sau môt chuyến vượt biên hụt. Thuyền vừa rời điểm tập trung được một đoạn thì bị lộ, phải quay vào. Tôi và thằng em trai út may mắn chạy thoát. Phần chính của bài thơ được viết lúc nằm chờ đợi trên thuyền. Phần còn lại được hoàn tất sau đó khoảng 2 tuần.

 

Bước chân xuống thuyền

coi như ngồi vào chiếu bạc

một còn một mất

tôi đặt cả cuộc đời mình

 

Có thể lát nữa đây tôi sẽ lênh đênh

trên biển cả

hướng về một bến bờ xa lạ

tìm lại cuộc đời

 

Cũng có thể chỉ lát nữa đây thôi

tôi sẽ thấy mình nằm trong ngục tối

chân bị cùm, tay bị trói

bắt đầu chuỗi ngày tra tấn tù đày

 

Nhưng tôi tin con người có rủi, có may

tôi cũng tin người ngay

trời không nỡ phụ

nên nhìn lại lần cuối

những đường xưa, phố cũ

tôi bước đi

lòng xao xuyến, bồi hồi

 

Ôi! Tổ quốc bất hạnh của tôi

giải đất hình chữ S

mà trên ấy tôi yêu tha thiết

từng nắm đất, ngọn cỏ, con người

đến những dòng sông lững lờ trôi

bảo sao lúc thuyền ra khơi

tôi chẳng rơi nước mắt

 

Giá ngay ở đây

tôi được cầm súng

một còn, một mất

với quân thù

thì dù ở bên kia trái đất

phú quý vinh hoa

tôi vẫn chối từ

 

Ngày mai trên đất nước tự do

nếu có ai hỏi

“Cần giúp đỡ gì?“ tôi sẽ nói:

“Hãy cho tôi một chỗ đứng trong đoàn quân

tiến về Sài Gòn”

 

Bút của tôi chưa mòn

tôi cũng một thời cầm súng

thì tôi sẽ xông vào chiến trận

với cả hai thứ vũ khí trên tay

 

Trước mắt tôi

giữa trời Sài Gòn phất phới bay

cờ vàng ba sọc đỏ

có bao người thân mặt mày rạng rỡ

đứng đón tôi về

 

Và tôi lại buông súng

viết tiếp những vần thơ

ngợi ca cuộc sống.

 

Bài thơ hoàn tất lúc tôi mới hơn 31 tuổi, đầy nhiệt huyết, lý tưởng và yêu đời nên đoạn kết rất lãng mạn, tứ thơ bồng bềnh như đang theo gió, theo mây. Bây giờ, 40 năm sau, đọc lại thấy có vẻ quá mơ mộng, không thực tế, nhưng ở thời điểm ấy tâm hồn tôi là như thế.


 

 

                 TÔI ĐÃ GẶP Ở ĐÂY

 

Sau khi bị đánh đập dập xương sống, bị cùm kẹp đến liệt hai chân và rối loạn cơ tròn, không kiểm soát được đường tiểu tiện và đại tiện, tôi nằm chờ chết trong xà lim. Nhờ sự can thiệp tận tình của hai bác sĩ tù Trần Quý Nhiếp và Trần Văn Lịch, cộng thêm đề nghị của một phái đoàn Thanh Tra Y Tế từ trung ương, tôi được chuyển vào một bệnh xá nhỏ ở Phân Trại B, nơi giam giữ tù hình sự. Tôi đã sống chung với đủ mọi loại tội phạm: giết người, trộm cướp, hiếp dâm, lừa đảo, xì ke ma tuý …v. v. (1)

 

 

Tôi đến đây

trong một lần đi trốn

khi đang trong cuộc một trò chơi lớn

trò chơi đấu tranh

 

Nhìn quanh

tôi thấy toàn thú dữ

mắt tròn xoe đổ lửa

uống máu ăn thịt lẫn nhau

trong khi bên ngoài những lớp rào

và những hào sâu

bầy quỷ sứ đứng canh

ngả nghiêng cười khoái trá

 

Ở đây

một nắm rau dại

một con sâu, con dế

lắm khi tàn tạ thân xác một con người 

một mẩu tàn thuốc rơi

có thể làm máu đổ (2)

 

Tử thần đang mừng rỡ

bước từng bước đến gần

những con người khốn khổ

họ không có gì chống đỡ

nên chỉ biết bán rẻ nhân cách của mình

biến thành những con vật đê hèn

ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi

 

May mắn thay

tôi đã gặp ở đây

ân tình đong thật đầy

của những người bạn mới

(giữa rừng cỏ dại quanh bờ suối

lác đác một hai khóm trúc đào)

tôi quên sao được hương vị ngọt ngào

của cành hoa các anh trao giữa muôn nghìn cay đắng

đàng sau những vệt máu

những giọt mồ hôi

những tia nhìn thù hận

là màu xanh ước mơ

những nét nhạc, những vần thơ

khung trời quê hương, biển tình yêu và cuồn cuộn dâng nhựa sống

tâm hồn tôi như bay cao giữa trời gió lộng

dù xác thân vẫn trĩu nặng gông xiềng

 

Tôi đã gặp những đứa em

còn chút dáng người giữa bầy dã thú

đói thắt ruột

và roi quất trên đầu, trên cổ

vẫn chẳng nỡ ăn thịt đồng loại của mình

tôi ôm các em vào lòng

thủ thỉ bên tai những lời thân ái

để các em quen dần tiếng nói

của loài người

đã quên mất từ lâu

 

Tôi đã bị đẩy xuống tận đáy vực sâu

dù đường còn rất xa và rất nhiều khó nhọc

vẫn cố trèo lên miệng vực

dù bọn quỷ sứ muốn biến tôi thành súc vật

trái tim tôi vẫn ăm ắp tình người

vẫn quay quắt nhớ người yêu xa tít một phương trời

và vẫn niềm tin

ở một ngày mai.

 

Phạm Đức Nhì

Viết cuối năm 1982 ở Bệnh Xá Phân Trại B 


Chú Thích:


1/ Tôi nằm ở Bệnh Xá B, khoảng hơn 30 bệnh nhân toàn là tù hình sự, chỉ có mình tôi "lạc loài". 


2/ Một ngày Chủ Nhật, được nghỉ lao động, có 2 em tù hình sự đến "cà kê dê ngỗng" kể chuyện tôi nghe. Số là cả 2 em đều ghiền thuốc nặng, lúc đang cuốc đất, thấy tên công an võ trang đứng gần đấy vứt cái tàn thuốc mới hút xong, cùng xông tới giành nhau. Đứa bị dộng báng súng lên ngực, chiều tối về phòng mới ói máu; đứa bị chân giầy đạp lên mặt, máu răng, máu miệng bê bết "giữa trận tiền". Một em vừa cười vừa nói: "Biết là ăn đòn nhưng ghiền quá chịu không nổi, anh ơi!"


 Trong bài thơ Bờ Vẫn Quá Xa có một đoạn tương tự:


Tôi có người bạn

đói lòng moi mấy củ khoai

các anh đập nát xương bàn tay

mãi mãi mang thương tật


Một người khác lâu ngày thèm thịt

chụp vội con nhái bên đường

bỏ vào mồm nuốt chửng

báng súng AK các anh lao vào ngực, vào bụng

cho đến khi con nhái phòi ra

con nhái lúc vào màu xanh

lúc ra thành màu đỏ.

http://www.saimonthidan.com/?c=article&p=10920   


Một độc giả tên Kh. Phạm đã gởi cho tôi một email như sau:


Bạn Phạm Đức Nhì thân mến,


“Bờ Vẫn Quá Xa” - bài thơ mang tính nhân bản và tình tự dân tộc có tác động thức tỉnh lòng trắc ẩn của những người phía bên kia. Nội dung mặc dầu cũng tố cáo những hành vi tàn bạo phi nhân của cai tù và hệ quả của chính sách hà khắc của nhà cầm quyền cộng sản đối với toàn dân, nhưng nó không biểu hiện sự căm hờn, thù nghịch mù quáng mà chỉ vạch trần mỗi góc cạnh của xã hội để thức tỉnh lương tri dân tộc.

 

 Mấy câu thơ tôi đắc ý nhất là:

 

Báng súng AK

các anh lao vào ngực, vào bụng

cho đến khi con nhái phòi ra

con nhái lúc vào màu xanh

lúc ra thành màu đỏ.

 

Chữ “phòi” và chữ “xanh”, “đỏ” bạn dùng thật đắt, thật tuyệt vời! Nó diễn tả được sự ghê tởm đến dã man vô cùng tận của con người đối với con người, của con dân với người đồng chủng.

 

Hãy tưởng tượng ba tên cai tù vây quanh một nạn nhân thân tàn ma dại, báng AK liên tục dộng vào ngực, vào bụng một người chỉ vì bị bỏ đói mà ăn bậy một con nhái sống. Mắt trợn ngược, miệng ứa máu, “phòi” ra một con nhái sõng soài trong bụm máu.  Thật ghê rợn, thật dã man.

 

Tôi nghĩ các bạn thơ của bạn từ quê nhà, đã từng là những chiến binh đối đầu trong mặt trận cũng phải ghê rợn, bẽn lẽn ngậm ngùi vì những hành vi phi nhân của những người đồng chí cùng chiến tuyến.

 

Đọc đoạn thơ này tôi bỗng nhớ đến hình ảnh tương tự của sự tàn bạo tôi được chứng kiến ở trại tù Nghệ Tĩnh.  Hôm ấy tôi được cử đi thâu hoạch rau xanh cho ban (ban cán bộ cai tù). Tôi đang chặt cải bắp và xu hào bỏ vào gánh thì từ xa một anh tù hình sự trờ tới.  Miệng liến thoắng, tay vơ vội chiếc cải bắp trên luống rồi ngoắt quay đi.

 

Bỗng đâu gần đó tên cán bộ quản giáo Hạnh xuất hiện, chặn đầu. Anh hình sự đứng chết trân như chuột trước miệng mèo. Tên cán bộ Hạnh quơ con dao phay to bản, cán sắt nặng, thẳng cánh phóng về phía trước.  Phịch! Tôi ghê sợ nhắm mắt lại, khi mở ra thấy anh hình sự gục xuống, miệng ứa máu lắp bắp: “Lạy ông…” và con dao cán quay ngược nằm ngay trước mặt…

 

Anh hình sự rất may chưa chết, nhưng ắt hẳn lá phổi anh đã bầm giập.  Anh ráng lết về hướng cũ, nơi đó có một tên lính dẫn giải từ từ tiến lại.  Tên dẫn giải nói với tên cán bộ Hạnh: “Mẹ kiếp, sao mày đánh nó đau thế! Tao bảo nó đến xin ít rau về cải thiện…” Thế là huề! Sinh mạng con người được giới có quyền trân trọng như thế ấy! 

Qua câu chuyện kể ta thấy “con nhái màu đỏ” của bạn không phải là hình ảnh cá biệt mà nó rất phổ biến trong các trại tù.  Dường như những người cán bộ công an họ đã được đào luyện, nhồi nhét trong đầu về cách nhìn nhận và đối sử với đồng bào ruột thịt mình như vậy.  

Họ có coi đồng bào họ là những con người? Ôi mẹ Việt Nam ơi! Chẳng lẽ đất nước này tồn tại và phát triển được đến ngày nay là dựa vào phong cách cư xử với nhau như vậy hay sao? Thật tôi không hiểu nổi!!!

Comments