MẤY BÀI THƠ ĐỌC Ở NHÀ ANH DOÃN QUỐC SỸ

 

 

                          

HOA DẠI

 

(Tâm sự một nhà thơ)

 

Tôi là loài hoa dại

mọc bên đường

tỏa sắc hương

dịu lòng những ông bố trên đường đến xưởng

những bà mẹ đi thăm ruộng 

trở về

 

Tôi thêm nét vui tươi cho cô gái quê

xách làn đi chợ

các cô cậu học trò

mặt mày hớn hở

cười với tôi mỗi buổi đến trường

 

Tôi đứng đây

mở lòng đón gió bốn phương

để thêm sắc thêm hương

cho người đời thêm đẹp dạ

 

Bạn đừng tưởng đời tôi êm ả

như mặt nước hồ

tôi đã bao phen nghiêng ngả

trước những trận gió to

 

Có lúc thân tôi xác xơ

tả tơi từng cánh

lá rụng phấn bay lịm dần trong đêm lạnh

nhưng nghĩ đến ngày mai tôi gượng dậy mỉm cười

 

Tuy nhiên

nếu lúc này bạn ngỏ ý mời tôi

đến một ngôi nhà sang trọng

dành cho tôi chỗ ngồi ấm cúng

có kẻ chăm lo trẩy lá tỉa cành

tôi vẫn lắc đầu nhìn dưới chân mình

mảnh đất nhỏ tôi vô cùng yêu mến

 

Tôi sống

không phải để riêng ai âu yếm

sắc hương này

tôi muốn sẻ chia 

cho tất cả mọi người từ em bé ngây thơ

đến các cụ già trăm tuổi

 

Và nếu nơi đây

nước dâng bão nổi

tấm thân này tan nát cuốn muôn nơi

tôi vẫn vui bởi phấn nhụy của tôi

sẽ mọc lên trăm ngàn cây hoa mới 

 

Bệnh Xá B 1983

 

 

HẸN MỘT NGÀY MAI

 

Ai chẳng muốn có một mái nhà êm ấm

khi đã bước qua tuổi ba mươi

một cô vợ hiền lành duyên dáng

một hai đứa con kháu khỉnh tươi cười

 

Bắt tay vào xây dựng tương lai

trong muôn ngàn việc chung

của quê hương dân tộc

ai chẳng có một đôi khoảnh khắc

nghĩ về những riêng tư

 

Tôi còn bà mẹ già

như ngọn đèn sắp tắt

mong đứa con trai từng giờ, từng phút

sớm trở về nhà lấy vợ, đẻ con

 

Mang trong lòng một hoài bão sắt son

“Bồi đắp vun trồng những mầm non nước Việt”

tôi cũng muốn mai đây

trong cánh rừng tươi đẹp

có một, đôi cây mang vóc dáng của mình

ngạo nghễ giữa trời xanh

 

Nhưng hôm nay

nghĩ đến chuyện gia đình

tôi như chạm phải vết thương nhức nhối

đất nước vẫn chìm trong đêm tối

lũ quỷ đỏ dã man

vẫn đày đọa muôn dân

đường đấu tranh sẽ còn lắm gian nan

mà sự nghiệp chỉ đôi bàn tay trắng

 

Tôi biết mình chưa thể chu toàn bổn phận

làm chồng

làm cha

khi chí vẫn tang bồng

vẫn chưa chồn chân lội suối băng rừng

vẫn đôi tay muốn ghì chặt súng

trên đầu tóc vẫn đang dựng đứng

mắt vẫn in rõ mặt quân thù

 

Và trái tim

vẫn hằng đêm

nhói đau trong ngực

khi xa xa vọng về tiếng khóc

của những bà mẹ già, những đứa trẻ thơ

 

Nên dù có lời hứa đợi chờ

của cô láng giềng tôi yêu tha thiết

dù mẹ tôi khao khát

mong cô con dâu

mong đứa cháu gọi bà

tôi vẫn lắc đầu và mỉm cười vu vơ

khi có người hỏi

“Sao chưa lấy vợ?”

 

Tôi mơ đến một khoảng trời rộng mở

có những đoàn quân

tiến về Sài Gòn

đòi lại quê hương đã mất

và hòa trong ào ào tiếng thét

“Tiến lên! Hãy tiến lên!”

có bóng tôi lao vút như tên

 

Viết khi mới bước qua tuổi 30

Phạm Đức Nhì


                           TẬP VẼ

Bài này tôi viết lúc đang nằm ở bệnh xá tọa lạc tại phân trại B. Tôi được chuyển vào đây sau khi bị đạp dập xương sống trong xà lim lần thứ hai.

 

Một em tù hình sự có học lại có hoa tay, vẽ đẹp nên được ưu tiên cho về đội nhà bếp để thỉnh thoảng vẽ cờ, hoa, khẩu hiệu trang trí cho phân trại. Em mến tôi và lúc bớt việc lại đến bệnh xá đề nghị tôi hát mấy bản nhạc vàng mà em ưa thích.

 

Một hôm em tâm sự là rất buồn, rất chán khi bị bắt buộc phải vẽ những hình, khẩu hiệu mà em “không có cảm tình”.

 

Bài thơ TẬP VẼ ra đời trong khung cảnh ấy.

 

 

Thuở bé

thầy giáo thường khen em

có hoa tay, vẽ nhanh, vẽ đẹp

chỉ vài nét

là có hình người

muông thú, cỏ hoa

 

Thế mà mấy năm qua

em luôn bị điểm 2 môn vẽ

chăm chỉ, miệt mài

tính em vẫn thế

chứ có đâu biếng nhác, ươn hèn

 

Nhớ hôm vẽ cờ búa liềm

em đã ngắm kỹ

từng đường cong nét thẳng

em cũng ướm thử

từng đoạn dài đoạn ngắn

nhưng đến hết giờ

em vẽ cũng vẫn … sai

 

Đưa lưng cho thầy quất mấy roi

em ngỡ

liềm cứa thịt da em rách

thước kẻ thầy đánh vào tay

em tưởng

búa đập xương em dập nát

 

Một hôm khác

lớp em vẽ hình Lê- Nin

em hết nhìn thẳng lại nhìn nghiêng

để ý từ chòm râu, sóng mũi

 

Nhưng lạ chưa!

Lê – Nin của em vào cuối buổi

trông cứ như đang múa vuốt, nhe nanh

xem bài em

thầy giáo giật mình

đánh em ngã lăn giữa lớp

 

Hôm vẽ Bác Hồ

lòng em hồi hộp

thầy đứng bên em

chẳng phút nào rời

thầy nhắc em

Bác nhân đức yêu người

thầy sánh Bác

với vua Hùng dựng nước

 

Em cố vẽ theo lời thầy

nhưng không sao vẽ được

tay chén chè tàu

tay ly rượu Vốt- Ka

Bác Hồ của em

trông gian ác, ranh ma

em lại bị thêm trận đòn

tím bầm thân thể

 

Bản đồ nước Việt Nam

một hôm em đang vẽ

này biển, này sông,

này rừng núi, ruộng vườn

này những thành phố quê hương

em đặt hết tâm hồn

vào trang giấy nhỏ

 

Thầy đứng sau lưng

cầm cây cọ đỏ

bôi kín tấm bản đồ tổ quốc em yêu

đỏ biển, đỏ sông

đỏ những đê điều

đỏ phố, đỏ phường

đỏ hết cả núi rừng, nương rẫy

 

Em bỏ ngôi trường làng

ra đi từ dạo ấy

lang thang như một khách giang hồ

Ôi! Nhớ làm sao

những lần tập vẽ ngày xưa

Ồ! Giá trường em

giờ có thầy giáo mới

 

Em sẽ chạy về ngay

không để lỡ một ngày,

một buổi

ngồi vào hàng ghế ngày xưa

thầy đang dậy những câu hát mẹ ru

còn em háo hức

chờ đến giờ tập vẽ.


Lúc viết bài thơ này, dù còn đang bại liệt trong trại cải tạo, tôi đã mơ đến chuyện ra đi chứ không như ngày 29 tháng tư năm 1975:

 

Khi đoàn tàu chở đơn vị tôi

chuẩn bị rời Vũng Tàu hướng ra Đông Hải

thương cha mẹ già, đàn em dại

tôi bước lên bờ

ở lại quê hương.

(Bờ Vẫn Quá Xa, Phạm Đức Nhì)

 

Bởi thông tin truyền vào qua thăm nuôi cho biết “sĩ quan cải tạo” trở về nếu không nhanh chóng tìm đường ra đi thì ở lại cũng bị tước đoạt hết mọi cơ hội kiếm sống, sẽ chỉ là gánh nặng cho gia đình mà thôi.


      VÌ THẾ TÔI RA ĐI.

 

Đây là bài thơ tôi viết sau môt chuyến vượt biên hụt. Thuyền vừa rời điểm tập trung được một đoạn thì bị lộ, phải quay vào. Tôi và thằng em trai út may mắn chạy thoát. Phần chính của bài thơ được viết lúc nằm chờ đợi trên thuyền. Phần còn lại được hoàn tất sau đó khoảng 2 tuần.

 

Bước chân xuống thuyền

coi như ngồi vào chiếu bạc

một còn một mất

tôi đặt cả cuộc đời mình

 

Có thể lát nữa đây tôi sẽ lênh đênh

trên biển cả

hướng về một bến bờ xa lạ

tìm lại cuộc đời

 

Cũng có thể chỉ lát nữa đây thôi

tôi sẽ thấy mình nằm trong ngục tối

chân bị cùm, tay bị trói

bắt đầu chuỗi ngày tra tấn tù đày

 

Nhưng tôi tin con người có rủi, có may

tôi cũng tin người ngay

trời không nỡ phụ

nên nhìn lại lần cuối

những đường xưa, phố cũ

tôi bước đi

lòng xao xuyến, bồi hồi

 

Ôi! Tổ quốc bất hạnh của tôi

giải đất hình chữ S

mà trên ấy tôi yêu tha thiết

từng nắm đất, ngọn cỏ, con người

đến những dòng sông lững lờ trôi

bảo sao lúc thuyền ra khơi

tôi chẳng rơi nước mắt

 

Giá ngay ở đây

tôi được cầm súng

một còn, một mất

với quân thù

thì dù ở bên kia trái đất

phú quý vinh hoa

tôi vẫn chối từ

 

Ngày mai trên đất nước tự do

nếu có ai hỏi

“Cần giúp đỡ gì?“ tôi sẽ nói:

“Hãy cho tôi một chỗ đứng trong đoàn quân

tiến về Sài Gòn”

 

Bút của tôi chưa mòn

tôi cũng một thời cầm súng

thì tôi sẽ xông vào chiến trận

với cả hai thứ vũ khí trên tay

 

Trước mắt tôi

giữa trời Sài Gòn phất phới bay

cờ vàng ba sọc đỏ

có bao người thân mặt mày rạng rỡ

đứng đón tôi về

 

Và tôi lại buông súng

viết tiếp những vần thơ

ngợi ca cuộc sống.

 

Bài thơ hoàn tất lúc tôi mới hơn 31 tuổi, đầy nhiệt huyết, lý tưởng và yêu đời nên đoạn kết rất lãng mạn, tứ thơ bồng bềnh như đang theo gió, theo mây. Bây giờ, 40 năm sau, đọc lại thấy có vẻ quá mơ mộng, không thực tế, nhưng ở thời điểm ấy tâm hồn tôi là như thế.


 

 

                 TÔI ĐÃ GẶP Ở ĐÂY

 

Sau khi bị đánh đập dập xương sống, bị cùm kẹp đến liệt hai chân và rối loạn cơ tròn, không kiểm soát được đường tiểu tiện và đại tiện, tôi nằm chờ chết trong xà lim. Nhờ sự can thiệp tận tình của hai bác sĩ tù Trần Quý Nhiếp và Trần Văn Lịch, cộng thêm đề nghị của một phái đoàn Thanh Tra Y Tế từ trung ương, tôi được chuyển vào một bệnh xá nhỏ ở Phân Trại B, nơi giam giữ tù hình sự. Tôi đã sống chung với đủ mọi loại tội phạm: giết người, trộm cướp, hiếp dâm, lừa đảo, xì ke ma tuý …v. v. (1)

 

 

Tôi đến đây

trong một lần đi trốn

khi đang trong cuộc một trò chơi lớn

trò chơi đấu tranh

 

Nhìn quanh

tôi thấy toàn thú dữ

mắt tròn xoe đổ lửa

uống máu ăn thịt lẫn nhau

trong khi bên ngoài những lớp rào

và những hào sâu

bầy quỷ sứ đứng canh

ngả nghiêng cười khoái trá

 

Ở đây

một nắm rau dại

một con sâu, con dế

lắm khi tàn tạ thân xác một con người 

một mẩu tàn thuốc rơi

có thể làm máu đổ (2)

 

Tử thần đang mừng rỡ

bước từng bước đến gần

những con người khốn khổ

họ không có gì chống đỡ

nên chỉ biết bán rẻ nhân cách của mình

biến thành những con vật đê hèn

ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi

 

May mắn thay

tôi đã gặp ở đây

ân tình đong thật đầy

của những người bạn mới

(giữa rừng cỏ dại quanh bờ suối

lác đác một hai khóm trúc đào)

tôi quên sao được hương vị ngọt ngào

của cành hoa các anh trao giữa muôn nghìn cay đắng

đàng sau những vệt máu

những giọt mồ hôi

những tia nhìn thù hận

là màu xanh ước mơ

những nét nhạc, những vần thơ

khung trời quê hương, biển tình yêu và cuồn cuộn dâng nhựa sống

tâm hồn tôi như bay cao giữa trời gió lộng

dù xác thân vẫn trĩu nặng gông xiềng

 

Tôi đã gặp những đứa em

còn chút dáng người giữa bầy dã thú

đói thắt ruột

và roi quất trên đầu, trên cổ

vẫn chẳng nỡ ăn thịt đồng loại của mình

tôi ôm các em vào lòng

thủ thỉ bên tai những lời thân ái

để các em quen dần tiếng nói

của loài người

đã quên mất từ lâu

 

Tôi đã bị đẩy xuống tận đáy vực sâu

dù đường còn rất xa

và rất nhiều khó nhọc

vẫn cố trèo lên miệng vực

dù bọn quỷ sứ muốn biến tôi thành súc vật

trái tim tôi vẫn ăm ắp tình người

vẫn quay quắt nhớ người yêu nơi ấy một phương trời

và vẫn niềm tin

ở một ngày mai.

 

Phạm Đức Nhì

Viết cuối năm 1982 ở Bệnh Xá Phân Trại B 


Chú Thích:


1/ Tôi nằm ở Bệnh Xá B, khoảng hơn 30 bệnh nhân toàn là tù hình sự, chỉ có mình tôi "lạc loài". 


2/ Một ngày Chủ Nhật, được nghỉ lao động, có 2 em tù hình sự đến "cà kê dê ngỗng" kể chuyện tôi nghe. Số là cả 2 em đều ghiền thuốc nặng, lúc đang cuốc đất, thấy tên công an võ trang đứng gần đấy vứt cái tàn thuốc mới hút xong, cùng xông tới giành nhau. Đứa bị dộng báng súng lên ngực, chiều tối về phòng mới ói máu; đứa bị chân giầy đạp lên mặt, máu răng, máu miệng bê bết "giữa trận tiền". Một em vừa cười vừa nói: "Biết là ăn đòn nhưng ghiền quá chịu không nổi, anh ơi!"


 Trong bài thơ Bờ Vẫn Quá Xa có một đoạn tương tự:


Tôi có người bạn

đói lòng moi mấy củ khoai

các anh đập nát xương bàn tay

mãi mãi mang thương tật


Một người khác lâu ngày thèm thịt

chụp vội con nhái bên đường

bỏ vào mồm nuốt chửng

báng súng AK các anh lao vào ngực, vào bụng

cho đến khi con nhái phòi ra

con nhái lúc vào màu xanh

lúc ra thành màu đỏ.

http://www.saimonthidan.com/?c=article&p=10920   


Một độc giả tên Kh. Phạm đã gởi cho tôi một email như sau:


Bạn Phạm Đức Nhì thân mến,


“Bờ Vẫn Quá Xa” - bài thơ mang tính nhân bản và tình tự dân tộc có tác động thức tỉnh lòng trắc ẩn của những người phía bên kia. Nội dung mặc dầu cũng tố cáo những hành vi tàn bạo phi nhân của cai tù và hệ quả của chính sách hà khắc của nhà cầm quyền cộng sản đối với toàn dân, nhưng nó không biểu hiện sự căm hờn, thù nghịch mù quáng mà chỉ vạch trần mỗi góc cạnh của xã hội để thức tỉnh lương tri dân tộc.

 

 Mấy câu thơ tôi đắc ý nhất là:

 

Báng súng AK

các anh lao vào ngực, vào bụng

cho đến khi con nhái phòi ra

con nhái lúc vào màu xanh

lúc ra thành màu đỏ.

 

Chữ “phòi” và chữ “xanh”, “đỏ” bạn dùng thật đắt, thật tuyệt vời! Nó diễn tả được sự ghê tởm đến dã man vô cùng tận của con người đối với con người, của con dân với người đồng chủng.

 

Hãy tưởng tượng ba tên cai tù vây quanh một nạn nhân thân tàn ma dại, báng AK liên tục dộng vào ngực, vào bụng một người chỉ vì bị bỏ đói mà ăn bậy một con nhái sống. Mắt trợn ngược, miệng ứa máu, “phòi” ra một con nhái sõng soài trong bụm máu.  Thật ghê rợn, thật dã man.

 

Tôi nghĩ các bạn thơ của bạn từ quê nhà, đã từng là những chiến binh đối đầu trong mặt trận cũng phải ghê rợn, bẽn lẽn ngậm ngùi vì những hành vi phi nhân của những người đồng chí cùng chiến tuyến.

 

Đọc đoạn thơ này tôi bỗng nhớ đến hình ảnh tương tự của sự tàn bạo tôi được chứng kiến ở trại tù Nghệ Tĩnh.  Hôm ấy tôi được cử đi thâu hoạch rau xanh cho ban (ban cán bộ cai tù). Tôi đang chặt cải bắp và xu hào bỏ vào gánh thì từ xa một anh tù hình sự trờ tới.  Miệng liến thoắng, tay vơ vội chiếc cải bắp trên luống rồi ngoắt quay đi.

 

Bỗng đâu gần đó tên cán bộ quản giáo Hạnh xuất hiện, chặn đầu. Anh hình sự đứng chết trân như chuột trước miệng mèo. Tên cán bộ Hạnh quơ con dao phay to bản, cán sắt nặng, thẳng cánh phóng về phía trước.  Phịch! Tôi ghê sợ nhắm mắt lại, khi mở ra thấy anh hình sự gục xuống, miệng ứa máu lắp bắp: “Lạy ông…” và con dao cán quay ngược nằm ngay trước mặt…

 

Anh hình sự rất may chưa chết, nhưng ắt hẳn lá phổi anh đã bầm giập.  Anh ráng lết về hướng cũ, nơi đó có một tên lính dẫn giải từ từ tiến lại.  Tên dẫn giải nói với tên cán bộ Hạnh: “Mẹ kiếp, sao mày đánh nó đau thế! Tao bảo nó đến xin ít rau về cải thiện…” Thế là huề! Sinh mạng con người được giới có quyền trân trọng như thế ấy! 

Qua câu chuyện kể ta thấy “con nhái màu đỏ” của bạn không phải là hình ảnh cá biệt mà nó rất phổ biến trong các trại tù.  Dường như những người cán bộ công an họ đã được đào luyện, nhồi nhét trong đầu về cách nhìn nhận và đối sử với đồng bào ruột thịt mình như vậy.  

Họ có coi đồng bào họ là những con người? Ôi mẹ Việt Nam ơi! Chẳng lẽ đất nước này tồn tại và phát triển được đến ngày nay là dựa vào phong cách cư xử với nhau như vậy hay sao? Thật tôi không hiểu nổi!!!

Comments